ĐÔI ĐIỀU VỀ CHIM QUẠ, CHIM KHÁCH

 

 Lương Thư Trung

Thông thường, nói đến "Ô THƯỚC", người ta thường nghĩ ngay đến giống chim quạ, nghĩ đến điển tích Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau đêm mùng bảy tháng bảy hằng năm, mà quên nhắc đến loài chim khách. Theo điển tích này, Ngưu Lang tên thật là Khiên Châu, hay Khiên Ngưu, người ta thường gọi trại ra là " Chàng Ngâu", tức là người Chăn trâu của Trời . Chức Nữ là Thiên Tôn Nữ, hầu Thượng Đế, không bỏ thì giờ . Thượng Đế thấy vậy, thương tình, gả cho Khiên Ngưu . Chức Nữ khi có chồng rồi sanh ra biếng nhác, không làm tròn phận sự như xưa . Thượng đế bắt tội, không cho ở chung với chồng nữa, đem về cho ở bên đông ngạn sông Ngân hà . Mỗi năm, tới ngày mồng bảy tháng bảy, còn gọi là thất tịch, mới cho gặp mặt chồng một lần . Đêm đó, nhờ có chim quạ, chim khách đội cầu ở sông Ngân Hà cho Chức Nữ qua sông gặp mặt chồng. Dịp này, xin mở ở đây một dấu ngoặc, cũng vào đêm thất tịch này, Đường Minh Hoàng thề bách niên giai lão với Dương Quí Phi :

" Chữ đồng lấy đấy làm ghi

Mượn điều thất tịch mà thề bách niên ."

( Ôn Như Hầu )

Trở lại Ô Thước, trong đời thường và trong ca dao, chim quạ và chim khách là hai giống chim có cùng lông màu đen . Quạ thì lớn con hơn, nhưng chim khách có lông đuôi dài hơn, gần giống như đuôi chim chích chòe lửa . Mỗi loài đều có những tiếng kêu và đặc tính riêng cũng như đời sống khác biệt . Trước nhất, nói về chim quạ .

Giống chim quạ ăn thịt sống. Thỉnh thoảng đói lắm, hoặc khó kiếm mồi, quạ mới ăn trái cây, ăn tấm cám v. v. Vì thế, trong tục ngữ, ca dao thường hay viết về quạ, mượn quạ để diễn tả những tâm tư, tình cảm, cách sống của con người . Thí dụ mấy câu tục ngữ sau đây :

" Quạ thấy gà thì đớp "

" Quạ qua nuôi tu hú "

" Quạ ăn dưa bắt cò giãi nắng "

" Quạ mổ, diều tha ."

" Gởi trứng cho quạ ."

Riêng ca dao, thì rất nhiều, chẳng hạn :

" Con quạ nó đứng đầu cầu
Nó kêu bớ má têm trầu khách ăn "

hoặc :

"Con quạ nó đứng chuồng heo
Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa ? "

Ở đó nói lên được đặc tính hiếu khách của quạ. Có người cho rằng, với cách mời mọc như vậy, gán cho loài chim này lẻo mép, không thật tình . Tôi không nghĩ như vậy . Nếu không có lòng thảo ăn, hiếu khách, lịch thiệp, dễ mà có được những lời mời

gọi như vậy . Trong tinh thần đoàn kết, giúp đỡ trong chòm xóm lẫn nhau, quạ cũng được đề cập đến như một tấm gương trong cadao :
 
" Con quạ tha lá lợp nhà
Con cu chẻ lạt, con gà dừng phên "

hoặc nói đến công lao của quạ :

" Trên rừng băm sáu thứ chim
Thiếu gì loan phụng , ta tìm quạ khoang
Quạ khoang có của, có công
Cho dù loan phụng nhưng không ra gì . "

Ngoài ra, người bình dân cũng dùng hình tượng chim quạ để diễn tả những nỗi lòng, những tình cảm xót xa có, bền chặt có, qua mấy vần ca dao sau đây :

" Con quạ nó đứng bên sông
Nó kêu bớ má lấy chồng bỏ con ."

hoặc :

" Chừng nào đá nát vàng phai
Biển Hồ lấp cạn mới sai lời thề
Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không .
Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Chỉ điều ai khéo vấn vương,
Mỗi người một xứ mà thương nhau đời . "

Riêng trong sách Hoài Nam Tử có dẫn tích mặt trời hóa ra con quạ ba chân . Do đó, quạ theo nghĩa bóng còn để chỉ mặt trời . Người đời thường gọi "kim ô ". Nhưng đặc biệt nhất, trong tìm hiểu, chúng ta gặp chữ " ô bồ " có nghĩa đen là quạ báo hiếu, tha mồi nuôi mẹ già. Nghĩa bóng chỉ người con có hiếu, lo phụng dưỡng cha mẹ . Đây có thể nói là một nét son của giống chim quạ, nêu một tấm gương thiết thực cho người đời trong đạo sống làm người là hiếu đạo với cha mẹ . Còn giống chim khách, theo người Tàu gọi là chim thước. Ngoài thềm có chim thước kêu là điềm báo tin có người nhà đi xa sắp về, điềm tốt.

Trong các giống vật gần gũi với con người ở nông thôn, có những giống mang điềm xấu như con kỳ đà, con rắn, con rít. Nếu gặp những loài này, thường không hên, không may mắn. Ca dao, tục ngữ có đề cập đến khía cạnh này .

Chẳng hạn như :

" Kỳ đà cản mủi ."

hoặc :

" Rắn rết bò vào, cóc nhái nhảy ra ."

hoặc :

" Rắn đến nhà chẳng đánh thì quái ."

Trái lại, chúng ta cũng biết, có một loài chuột xạ, thường ở dưới gầm giường, dưới kẹt đá, kẹt tủ, kẹt lu, kẹt hủ, tiết ra một mùi hôi hôi, khó chịu . Trông hình dáng loài chuột này rất xấu xí . Nhưng có một điều lạ, cứ mỗi lần chuột xạ kêu liên tục nhiều tràng dài như chuông điện thoại, thường vào ban đêm, là điềm vui, báo sự may mắn, nhà sắp có khách đến thăm. Ở nhà quê mà có khách đến thăm là vui, là quí lắm.

Cùng mang niềm vui đến như vậy, ở trong vườn, trong thôn quê, loài chim khách chuyền từ cành này sang cành khác, không kêu ra rã như tu hú gọi mùa hoặc như quạ . Chỉ khi nào cần thiết, chim khách mới cất tiếng kêu : " Khách ! Khách ! Khách ! ", liên tục ba, bốn lượt. Nếu chim khách gọi phía trước sân trên cành xoài, cành mận, cành bưởi, thì có khách xa, khách quí đến thăm, sau một thời gian xa vắng lâu ngày .

Nếu chim khách gọi phía sau nhà, sau bếp từ trên bụi tre gai, từ trên tàu lá chuối hoặc bất cứ nơi nào phía sau nhà, thì sẽ có người thân đi xa sắp về, hoặc có con cháu, bà con tới thăm, sẽ ở lại chơi vài ba ngày . Chủ nhà phải lo cơm nước, chỗ ăn, chỗ ngủ . Vì người nông dân, họ rất qúi khách một cách chân tình, nên họ tiếp đãi

rất ân cần . Trong nhà có gì, đều mang hết ra mời khách, không tiếc. Vì thế, tục ngữ có câu :

" Khách tới nhà không gà thì vịt "

Từ đó, trong chữ nghĩa, chúng ta thấy có những từ ngữ như :

" thước báo " nghĩa là chim thước mách tin, " thước ngữ " nghĩa là chim thước báo tin mừng. Cùng với cầu Ô, chúng ta cũng thấy có cầu Thước hoặc Thước kiều như trong câu thơ dễ thương sau đây của một thi sĩ vô danh:
" Muốn treo cầu Thước cho ngay lại
Để đợi chàng Ngưu tiện lối về . "

Thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng có câu thơ về cầu Ô, cầu Thước :

" Giải Ngân Hà biến theo cầu Ô Thước "

hoặc câu thơ sau đây của Hoàng Chừ :

" Ai hay Ô Thước bắc cầu đưa sang "

và :
 
" Khi xưa ai biết ai đâu,
Vì chim Ô Thước bắc cầu sông Ngân. "

( Vô danh )

Chúng ta thử đọc lại vở bi hài kịch, qua những dòng thơ bình dân trong văn chương truyền khẩu, như một cáo trạng lên án hủ tục " môn đăng hậu đối " trong hôn nhân, mà có loài chim khách dự phần :

" _ Mẹ ơi ! Năm nay con
mười tám tuổi rồi !
Chồng con chưa có,
mẹ thời tính sao ?
Con chim khách nó
mách có hai bà mối .
Mẹ ngồi thách cưới :
Tiền chẵn năm quan,
Cau chẵn ba ngàn,
Lợn béo năm con,
Áo quần năm đôi
_ Mẹ ơi ! Năm nay con
hai mươi ba tuổi rồi !
Chồng con chưa có,
mẹ thời tính sao ?
Con chim khách nó
mách có hai bà mối .
Mẹ ngồi thách cưới :
Tiền chẵn ba quan,
Cau chẵn một ngàn,
Lợn béo ba con,
Áo quần ba đôi .
_ Mẹ ơi ! Năm nay con
ba mươi hai tuổi rồi !
Chồng con chưa có,
mẹ thời tính sao ?
Con chim khách nó
mách có hai bà mối .
Mẹ ngồi thách cưới :
Tiền chẵn một quan,
Cau chẵn một ngàn,
Chó béo một con,
Áo quần một đôị
_ Mẹ ơi ! Năm nay con
bốn mươi ba tuổi rồi !
Chồng con vẫn hoàn chưa có,
Mẹ thời ... Mẹ
thời ...cho không ! "

Qua những vần thơ bình dân, dí dỏm với ý nghĩa sâu sắc về những ý nghĩ lỗi thời trong việc chọn vợ kén chồng. Nhưng ở đây, điều đặc biệt muốn nói đến, với bài viết này, là sự linh nghiệm của loài chim khách . Mỗi lần chim khách báo tin , là mỗi lần có khách, " có hai bà mối " đến nhà, có niềm vui. Nhưng chẳng qua vì sự so đo, kén lựa quá chú tâm vào " môn đăng hộ đối ", nên kết cuộc như các bạn đã thấy một sự thật... buồn.

Chim khách, còn gọi là chim thước, lúc nào cũng gần gũi với người nông dân ở nơi thôn dã, quê mùa. Một loài chim, luôn luôn mang đến cho trần gian những tin vui, hy vọng và hạnh phúc như những bước nhảy, những tiếng kêu báo gọi vui vui, trên cây, trên nhánh, vào một buổi trưa tĩnh mịch nào đó của khu vườn . Mà mỗi lần người đời nhắc tới Ngưu Lang Chức Nữ, nhắc tới Ô Thước, nhắc tới gặp gỡ, trùng phùng, dường như người đời cũng dễ quên loài chim bé nhỏ này, như quên một cái gì gần gũi, thân thiết mà không một chút dày vò, cắn rứt trong lòng!!!

Lương Thư Trung