Những dạng thơ Đường luật

Bồ Tùng Linh

1 - Họa Vận

Một người làm một bài xướng lên, một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại ( phản đề ) :

Hỏi Ả Bán Chiếu
Xướng :
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chưa được mấy con ?
Nguyễn Trãi

Họa :

Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon .
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ ,
Chồng còn chưa có,có chi con !
Nguyễn thị Lộ
 
2-Thủ nhất thanh ( nhất đồng )
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau.
 
Tám Mừng
 
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ,
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi,
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa.
1986 Lạc Nam
 
3-Song điệp
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :
 
Chuyện Đời
 
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay còn chị chị anh anh đó ,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
Nguyễn Công Trứ
 
4-Song điệp độc vận
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần.
 
Xuân Và Thơ
 
Xuân tự ngàn xưa,bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Đẹp duyên hoa bút,Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều,nhạc ánh Thơ.
Xuân vắng,oanh hờn,dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc,
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ.
Lạc Nam
5-Dĩ đề vi thuû
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ :
 
Xướng (Nam): "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta"
 
Trăm nỗi bâng khuâng góp chuyện lòng
Điều chi mà ngại nghĩa non sông
Hãy buông lá thắm xuôi dòng vắng
Cứ để hoa đào cợt gió đông
Trông nẽo lầu thơ chờ hạnh ngộ
Vào trong giấc mộng đợì tao phùng
Một phen tâm sự hòa theo nhạc
Ta sẽ cùng nhau viết thỉ chung
 
Họa (Nữ) : "Đi đâu chẳng biết con người sở khanh"
 
Đi mãi đường xa đã biết lòng
Đâu còn mơ tưởng núi cùng sông
Chẳng đem thơ ấy treo lầu vắng
Biết chọn hoa nào bán chợ đông
Con mắt chưa từng xanh thế tục
Người quen đành tạm trắng tương-phùng
Sở Tần, xin nhắn thà xa cách
Khanh tướng đâu mà nghĩ đỉnh chung !
 
6-Dĩ đề vi vận
Lấy đầu đề làm vần
 
Không Chồng Trông Bông Lông
 
Xướng :
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
 
Họa Vận :
Phật rằng sắc sắc không không ,
Sắc sắc không không khó chất chồng.
Ân oán,nhiều người còn có ngóng,
Trải oan,lắm kẻ vẫn chờ trông.
Thế gian,nhân quả nhanh như bóng,
Cõi Phật,nhân duyên nhẹ tựa bông.
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp mãi,
Luân hồi ra khỏi,hết bông lông.
Cổ Lai Hy (nhóm Silicon)
 
7-Toán thi
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số.
 
Thân Phận Gái
 
Một sớm phân vân bước xuống thuyền,
Tưng bừng hai họ,nỗi sầu riêng.
Lặng nhìn ba má,đôi giòng lệ,
Xác pháo bốn bề,nát phận duyên.
Năm tháng rồi đây tùy số kiếp,
Hoài lang sáu nhịp,vọng chim uyên.
Bảy ba chìm nổi,tình nhi nữ,
Đôi tám sang ngang,đạo chính chuyên.
Tùng Linh
 
8-Liên hoàn
Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới
 
Thi Lấy Được
 
Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi,
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trượt,
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
 
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Nam nhi chi chí, há lo gì,
Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi.
 
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi.
Trượt thi, thi trượt, vẫn gan lì.
. . . .
Tú Mỡ
Lính Tập Vinh Qui
 
Chú đội qua Tây thắng trận về,
Cả nhà đón rước thật mừng ghê !
Ông già, bà lão gồm hai cụ,
Vợ giảnh, con ngoan đủ mọi bề, (1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói,
Rạng mình khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tươi tốt,
Bộ cất tay lên, ngó cũng nghề. (2)
 
Bộ cất tay lên ngó cũng nghề,
Miệng cười tróm trém, húi râu dê.(3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề ! (4)
Mở mặt Tiên Rồng dòng Đại Việt,
Nổi danh hùng hổ cõi Âu tê (5)
Trong tình cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dường nghe tiếng ắc-đê ! (6)
N.V.H
 
Chú thích
1-Vợ đẹp ( tiếng Nghệ)
2-Có vẻ tay nghề
3-Bộ râu xén như râu dê
4-Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5-Âu Tây.chữ tây,âm Hán có khi đọc là tê
6-Phiên âm chữ Pháp : un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập.
 
9-Liên hoàn thuận nghịch vận
Thể thơ như trên, nhưng bài thứ 2 viết ngược vần lại với bài thứ nhất.
 
Xem Núi Non Bộ
 
Non nhân, nước trí, điểu muông hiền,
Núi giả mà in dáng tự nhiên.
Một vũng xinh xinh, vươn một ngọn,
Hai cầu nho nhỏ, vắt hai triền.
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục,
Cánh hạc trườn mây bổng cõi tiên.
Đối cảnh tâm tư dường nhẹ nhõm,
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
 
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Bàn đá say cờ đôi lão tiên,
Lã vọng buông câu vờn sóng nước,
Phật đài mở lối lượn ven triền.
Sỏn thanh thủy tú,hồn u nhã,
Sắc lộng hương nùng ,khí hạo nhiên.
Phong cảnh tạo hình như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền.
Lạc Nam
 
10-Ô thước kiều
Thể thơ liên hoàn như trên, nhưng lấy 2 từ cuối, hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới.
 
Chống Tôn Thọ Tường
 
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Người trí mang lo danh chẳng chói,
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn in tay thợ,
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ.
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ.
 
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành,
Luống biết trách người,chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe đàng đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh.
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có,ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.
 
Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang,
Đốt sáp nên tro lụy chẳng màng.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giá xóa tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng xăng mới gặp vàng.
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc.
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang.
Phan Văn Trị ( 1830-1910)
 
11-Tập danh
a- Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
 
Mừng Ông Lão Hàng Thịt Ăn Thượng Thọ
 
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy(1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Đầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai. (4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
Chữ đức giả xương máu để đời.
Nguyễn Khuyến
 
Chú thích :
1-Do câu " nhân sinh thất thập cổ lai hy " ,ngưòi ta sinh ra sống được 70 tuổi,xưa nay rất hiếm có.
2-Rót rượu mời người khác uống. 3-Chén rượu của Lý Bạch ,nhà thơ uống rượu nổi tiếng. 4-Lão Lai,người nước Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài 70 còn cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui.
 
b-Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con người.
 
Học Trò
 
Dài lưng tốn vải lại ăn no,
Nghĩ ngán cho thân phận học trò.
Thù nước, thù vua, ngay mặt chịu,
Công sưu, công ích, cắm đầu lo !
Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng,
Còn ngậm lông mèo chả sợ ho !
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc,
Rung đùi, chỉ nghĩ " tám đùi " to !
Nhì Mỹ
 
Chú thích : Ngậm lông mèo : ngậm bút chữ nho. Tám đùi :văn xưa gọi là " bát cổ "dịch là tám vế,vế đồng nghĩa với đùi.
 
12-Tính danh
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống như Điển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu.Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm vì như thế các cụ mới chịu cho là có học, rộng kiến thức.
 
Lỗi Thề
 
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Đường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành(2) rở nhớ thương.
Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương(4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.
Toại Khang
 
Chú thích :
1: Kiều trầm mình ở sông Tiền Đường. 2- Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành.
3- Đường Minh Hoàng -Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành". 4-Bạch Cư Dị,văn hào đời Đường, đêm đậu thuyền ở bến sông Tầm Dương làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát.
5-Chung Tử Kỳ -Bá Nha là 2 bạn tri âm. Bá Nha gảy đàn,T ử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì. Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa. 6-Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên. 7-Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ.
8-Ngưu Lang và Chức nữ đứng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng 7 Âm lịch.
 
13-Sắc thái
Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc.
 
Chiều Nổi Mầu Thu
 
Trời thu bóng ác rực mầu vang,
Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng.
Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng
Chòm mây mưa nhạt khói mờ lam.
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía,
Vườn vắng còn đây nở đóa vàng.
Nếu chẳng vương tìm hoa súng tím,
Thì đâu được ngắm nguyệt da cam.
Toại Khang
 
14-Thủ vĩ ngâm
Thể thơ trong đó câu đầu và câu cuối giống nhau
 
Khoe Lười
 
Anh em chớ bảo ta lười,
Làm việc cho hay phải thức thời.
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,
Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,
Anh em chớ bảo ta lười.
Tú Mỡ
 
Đèn Kéo Quân
 
Lúng túng trong vòng mấy đứa đen,
Nhờ khi đỏ lửa mới hay hèn.
Nghênh ngang võng giá phô đồ giấy,
Đủng đỉnh dù che nép bóng đèn.
Thằng trước thằng sau liền gót chạy,
Anh trên anh dưới vểnh râu lên.
Này ai say tỉnh nhìn xem thử,
Lúng túng trong vòng mấy đứa đen.
Khuyết Danh
 
15-Triệt hạ
Từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa, khiến người đọc phải nghĩ ra.
 
Gái Hồng Nhan
 
Thấy gái hồng nha bỗng chốc mà . . .
Hõi thăm cô ấy chửa hay đà . . .
Hình dung yểu điệu in như thể . . .
Diện mạo phương phi ngó tưởng là . . .
Ăn mặc ra tuồng người ở chốn . . .
Nói năng phải lẽ giống con nhà . . .
Ước gì ta được mà ta để . . .
Ta để đem về để nữa ta . . .
Nguyễn Quý Tân
 
16-Yết hậu
Các câu trên đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ.
 
Rượu Say Nhè
 
Sống ở nhân gian, đánh chén cay,
Trăm năm ngày tháng, giữ be đầy.
Diêm vương phán hỏi "Ai đó " ?
- "Say ! "
 
Sống ở nhân gian đánh chén khè ,
Trăm năm ngày tháng,giữ đầy be.
Diêm vương phán hỏi " Ai đó " ?
- "Nhè ! "
Phạm Thái (biệt hiệu Chiêu Lỳ)
 
17-Áp cú
Từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau.
 
Sang Canh
 
Năm nảo năm nao cũng ước lành
Lành, còn mong hết ? đón sang canh.
Canh trời thắc thỏm phương xin lộc,
Lộc nước lăm le khách vít cành.
Cành lá đêm qua dù thiếu nụ,
Nụ đào xuân hé đẹp hơn tranh,
Tranh đời mới lại màu hoa gấm,
Gấm vóc sơn hà lộng sắc xanh.
Toại Khang
 
Chừa Rượu
 
Những lúc say sưa, cũng muốn chừa,
Muốn chừa,nhưng tỉnh lại hay ưa,
Hay ưa nên nỗi không chừa được,
Chừa được, nhưng mà cũng chẳng chừa.
Nguyễn Khuyến
 
18-Chơi chữ
Thể thơ chơi chữ rất phong phú và hứng thú. Chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu :
 
a-Chơi theo vần A B C . . .
 
Muốn Quy Thuyền
 
A Di Đà Phật muốn quy thuyền,
B bết lòng tham hãy cứ nguyên.
C xích cho gần nơi cửa tịnh,
Đ đầu nguyện dứt mối trần duyên.
Thảo Am
 
Dở Dang
 
E không thoát khỏi xa niềm tục,
F gượng rồi ra cũng hão huyền.
T tái trần duyên tu chẳng trọn,
Y thời cũng trả,bát không quyên.
Bùi Tiến (nhóm Silicon)
 
b-Chơi theo các dấu : Huyền - Sắc - Nặng - Hỏi
 
Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền,
Sắc không khôn rõ thấu căn nguyên
Nặng nề nghiệp chướng e chưa hết,
Hỏi mấy ai đà có thiện duyên.
Thảo Am
 
c-Các từ trong bài thơ đều dùng một phụ âm hay nguyên âm
 
Chuyện Cô Cháu
 
Cô chẳng cho con cả chén chè
Cô cho chút chút,chán cô chưa.
Chè còn,cô cất cho chua cả,
Con cũng chê,mà chó cũng chê.
Bùi Tiến (Quán Thơ Silicon)
Chớ chớ, cháu cô chỉ chãnh chòe,
Cháo chè chi chiết chán chường chưa !
Chén chè cô cúng cho chùa cả,
Cầu cháu cùng cô chồng chẳng chê !
Mai Ninh (nhóm Silicon)
 
d- Ý của các từ , cụm từ, câu thơ đều phải hiểu theo nghĩa bóng, điển . . . Thể thơ chơi chữ này thú vị và bất ngờ nhất vì có khi người đọc nghĩ ra những ý mà chính tác giả cũng không nghĩ ra.
 
Tắm Trong Tù
 
Vùng vẫy mình trong bể nước đầy
Hết kỳ lại cọ, chẳng rời tay
Ông Tây cứ bảo mình yêu nước,
Ừ, chẳng yêu sao lại thế này ?
Nhượng Tống
 
Chú thích : Lệ nhà tù, một tuần mới cho tắm một lần, nên mỗi khi tắm, phạm nhân vùng vẫy kỳ cọ trong bể nước cho bằng đã.
 
Ghẹo Sư nữ
 
Ôm tiu cắp mõ ngủ kho kho,
Gió thổi mùng thiền mát mẻ cô,
Cánh cửa từ bi gài lỏng khóa,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác ,
Chim suối nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn với chúng sinh lòng muốn độ,
Đêm đêm thường niệm chữ nam vô !
Nguyễn Khuyến ? Mai Thế Quý ?
 
19-Kỵ đề
Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều không có từ nào chỉ đề tài mà vẫn thể hiện đầy đủ yêu cầu của đề tài. Chưa sưu tầm ra bài mẫu
 
20-Bát điệp
Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều có lồng vào 1 hoặc 2 từ giống nhau.
 
Gái Muộn Chồng
 
Ai giám thương đâu gái có chồng
Thương vì một nỗi chực phòng không.
Thương con quốc đực kêu mùa hạ
Thương cái bèo non giạt biển đông
Thương vợ chồng Ngâu duyên chểnh mảng,
Thương cha mẹ nhện số long đong.
Cái thương quân tử thương là thế,
Có giám thương đâu gái muộn chồng.
Khuyết Danh
 
Còn Chơi
 
Ai đã hay đâu tớ chán đời,
Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi.
Chơi cho thật chán, cho đời chán,
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi.
Nói thế, can gì tớ đã thôi ?
Đời đương có tớ, tớ còn chơi.
Người ta chơi đã già đời cả
Như tớ năm nay mới nửa đời.
Tản Đà
 
Chú thích :Trong câu 5 Tản Đà không có dùng từ đời. Nếu ta thay từ " can gì " bằng "đời nào " câu 5 thành : "Nói thế, đời nào tớ đã thôi" thì bài thơ thuộc thể Bát điệp.
 
21-Liên ngâm
Thể thơ trong đó 2 hoặc nhiều người làm chung một bài thơ lần lượt nhau mỗi người 1 hoặc 2 câu.
 
Cảnh Tây Hồ
 
Bài này do bà Liễu Hạnh cùng ông Phùng Khắc Khoan ,1 ông họ Lý,1 ông họ Ngô chơi thuyền ở Hồ Tây liên ngâm:
 
(Liễu)
Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời
(Lý)
Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi.
Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh,
(Phùng)
Trâu vàng biêng biếc nước vàng khơi.
Che mưa nhà lợp vài gian cỏ
(Ngô)
Chèo gió ai bơi một chiếc chài
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng
. . . . . . . . . . . .
 
(Phùng)
Đông hết thành xuân chửa thấy mai.
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ
(Ngô)
Sóng lòng trần tục dạ đầy vơi.
Xe săn Vị Thủy tha hồ hỏi
(Lý)
Thuyền tới Đào nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm dục thanh lòng Phật đó
(Liễu)
Trăng tròn soi bóng một tiên thôi.
 
( Nguyên văn chữ Hán Truyện Liễu Chúa-Phan Kế Bính dịch nôm trong Việt Hán văn khảo )
 
22-Hạn Vận
Người ra đề cho vần nào ta phải dùng vần ấy. Thể thơ này khác với thể Họa Vận vì không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải :
 
* Tả ý thơ theo đầu đề
* Dùng 5 vần hạn định (trong 8 câu)
Thí dụ : Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức
 
a/ đầu đề :
 
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không, ai dám dở mùng chun vô ?
 
b/ 5 vần hạn định : xô, cô, vô, ô, rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một nhà sư chân tu ! :
 
Nào phải là ai dám giục xô,
Thuận tình truớc hết tự nơi cô.
Có cho mới dám trao dùi đánh,
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô ?
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa,
Ham vui quên hết chuyện dâm ô.
Thói hư thuần, thước xưa còn lạc,
Đừng học làm chi gióng nhảy rô !
 
23-Phú Đắc
Giải thích và phát triển ý của một câu ca dao hay một câu thơ bằng một bài thơ, nhưng nội dung phải phù hợp với sự việc đó.
 
Già Còn Muốn Lấy Chồng
 
Phú Đắc :
Bà già đã bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư kén chồng
 
Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao ?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
Chữ nhất nhi chung đành đã vậy (1)
Câu tam bất hiếu nữa làm sao (2)
May mà lấy được ông chồng trẻ,
Họa có sinh ra được chút nào ?
Nguyễn Khuyến
 
Chú thích :
1- Nhất nhi chung : chỉ có một chồng cho đến trọn đời.
2- Tam bất hiếu :Theo thuyết Khổng Mạnh có câu " Bãt hiếu hữu tam, vô hậu vi đại ", nghĩa là tội bất hiếu có 3 điều, không có con trai nối dõi là tội to nhất.
 
Thách Vần
Phú Đắc :
Tối um um, trống điểm thùm,
Dáng lum khum, có lẽ hùm !
Quán tùm hum !
 
Giời hôm như mực cỏ xanh um,
Kẽm trống đâu đây bước đánh thùm,
Ven núi chẳng nề cao với thấp,
Qua cầu đếch biết thẳng hay khum.
Đường mây, ngọn gió, đôi đàn vạc,
Móng đá chân sim, một dấu hùm.
Sực thức đêm khuya thương kẻ lạnh,
Màn, chăn, đệm ấm hủm hùm hum.
Lê Lượng Thể (biệt hiệu Thảo Trang)
 
24-Láy Thơ
Thể thơ trong đó hoặc ở đầu câu,ở giữa câu hay ở cuối câu đều có từ láy. Láy có 3 loại :
 
a- Láy từ : Từ đùng trước được láy lại toàn bộ ở từ sau : ngời ngời, xinh xinh, ngà ngà, ngoan ngoãn . . .
 
b- Láy âm :Bộ phận phụ âm đàu của từ trước được láy lại ởbộ phận phụ âm của từ sau : khó khăn, đỡ đần . . .
 
c- Láy vần : Bộ phận vần của từ trước được láy lại ở bộ phận vần của từ sau : bồn chồn-lẩm cẩm-cheo leo . . .
 
d- Láy có 3 thể :
 
1/ Láy đôi : canh cánh, tà tà, lăm le . . .
 
Quan Khánh
 
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều quán cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đót khẳng khiu.
Ba chạc cạy xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biết cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo lắng,
Kìa cái diều kia nó lộn lèo !
Hồ Xuân Hương
 
2/ Láy ba (Vĩ Tam Thanh): Sạch sành sanh-dửng dừng dưng - sát sàn sạt . . .
 
Ngẫu Hứng
 
Tiếng gà bên gối tẻ tè te,
Bóng ác trông lên hé hẻ hè.
Cây một chồi cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lóe lòe loe.
Chim tình bè lứa kia kìa kịa,
Ong, nhĩa vua tôi nhé nhẻ nhè.
Danh lợi mặc người ti tí tị,
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe.
Vô Danh
 
3/ Láy tư : Trùng trùng điệp điệp, lúng ta lúng túng, hớt hơ hớt hải, áo áo quần quần . . .
 
Hạ Long Tức Cảnh
 
Trùng trùng điệp điệp núi chon von,
Ảo ảo mơ mơ thế trận hồn ,
Lớp lớp hàng hàng hòn Bái Tử,
Non non nước nước một lòng son.
Tùng Linh (Quán Thơ Silicon)
 
25-Lái Thơ
Thể thơ có những cụm từ đôi được lái thành cụm từ đôi khác (hoặc cụm từ ba, nhưng rất ít), như trong câu : "Con cá đối nằm trong cối đá" hoặc trong cảnh Trạng Quỳnh ngồi bờ ao chơi đá bèo làm cho bà Quận Chúa phải đỏ mặt.
 
Muốn Quy Thuyền
 
Cầu đạo cần chi phải cạo đầu ,
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu.
Na bường bát tới nương bà vãi,
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Thảo Am
 
Nhắn Bạn
 
Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc,
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông.
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi,
Cười ngả nghiêng cho mệt cả người.
Thảo Am
 
26-Cô nhạn xuất quần
Thể thơ trong đó vần câu đầu làm khác hẳn, không giống mấy vần dưới. Chưa sưu tầm ra bài mẫu.
 
27-Cô nhạn nhập quần
Thể thơ trong đó mấy vần trên đi với nhau, chỉ có vần dưới làm khác hẳn đi. Chưa sưu tầm ra bài mẫu
 
28-Liên Châu
Thể thơ tràng thiên dùng nguyên một vần mà câu nào cũng có vần. Chưa sưu tầm ra bài mẫu
 
29-Vấn nghi
Câu thơ nào cũng theo thể hỏi, nên sau mỗi câu đều đặt được dấu hỏi cả.
 
Vấn Nguyệt
 
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn ?
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Hỏi con Ngọc-thỏ đà bao tuổi ?
Chớ chị Hằng-nga đã mấy con ?
Đêm thẳm cớ chi soi gác tía ?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son ?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó ?
Hay có tình riêng với nước non ?
Vô Danh
 
30-Thuận nghịch độc (hồi văn)
Thể thơ khi đọc xuôi là 1 bài thơ,mà đọc ngược cũng là 1 bài thơ. Thể thơ này đòi hỏi công phu ghép từ thật khéo và phải làm theo đúng luật bằng trắc để có thể đọc xuôi ,đọc ngược đều có nghĩa, câu thơ chải chuốt không khổ đọc.
 
Cảnh Tây Hồ
 
(Đọc xuôi) :
Đây vui thực lạ cảnh Tây Hồ !
Trước tự trời kia khéo vẽ đồ.
Mây lẫn nước xanh màu tỏ ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu.
Cây la tán rợp từng cao thấp,
Sóng gợn cầm tâu nhịp nhỏ to.
Bày khéo thú vui non nước đủ,
Tây Hồ giá ấy dễ đâu so !
Khuyết Danh
 
(Đọc ngược) :
So đâu dễ ấy giá Hồ Tây ?
Đủ nước non vui thú khéo bày.
To nhỏ nhịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao từng rợp tán la cây.
Châu in vẻ thắm, hoa lồng nguyệt,
Ngọc tỏ màu xanh, nước lẫn mây.
Đồ vẽ khéo kia trời tự trước,
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây !
Khuyết Danh
 
Xuân Hứng
 
(Đọc xuôi, Hán văn) :
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài,
Khách bộ tùy sương ấn bích đài
Kỳ cục đã thanh phong giáp trận
Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi !
Sơ liêm thấu nguyệt hương hung trúc,
Tuyết án lăng hoa vị áp mai
Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm
U tình cố nãi thuộc quyên ai !
Khuyết Danh
 
(Đọc ngược theo phiên âm chữ nôm) :
Ai quen thuộc ấy có tình ư ?
Điếm tĩnh đầu am cỏ phất phơ
Mai ép mùi hoa lùng án tuyết
Trúc lồng hương nguyệt thấu rèm thưa
Chén hòa tuyết trắng nghiêng hồ rượu
Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ
Rêu biếc in sương theo bước khách
Hài hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.
Khuyết Danh
 
31-Phá cách
Thơ làm thất niêm có dụng ý
 
Đèo Ba Dội
 
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ hoét tùm hum nóc,
Kẽ đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt léo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mõi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Hồ xuân Hương
 
Chú thích : Bài thất ngôn bát cú này làm theo thể bình, vần bình, nhưng không theo niêm luật.
 
Mấy Điều Kỵ Trong Thơ Đường Luật
 
Phép làm thơ ,có mấy điều tối kỵ không nên phạm đến :
1- Thất luật : Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng
 
2- Thất niêm : Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng
 
3- Lạc vận : Đang theo vần này mà gieo sang vần khác, như như vần trên là trời mà vần dưới là mây thì gọi là lạc vận.
 
4- Xuất vận : Người ta đã hạn định cho những cho những vần gì,mà mình dùng vần khác,thì gọi là xuất vận.
 
5- Trùng vận : Câu trên đã dùng một vần ,câu dưới lại dùng dùng như thế nữa thì gọi là trùng vận.
 
6- Cưỡng áp : Các vần gieo ép uổng, không được hiệp lắm.
 
7- Khổ độc : Trong một bài thất ngôn,chữ thứ ba các câu chẵn,trong một bài ngũ ngôn,chữ thứ nhất các câu chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc
 
8- Phong yêu hạc tất : từ thứ tư và tứ thứ bảy trong thơ thất ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm trong thơ ngũ ngôn trùng một âm.
 
9- Đối không chỉnh : Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân.
 
10- Trùng từ hay trùng ý : Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.
Tài liệu tham khảo
 
1- Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dương Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
 
2- Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thư,1965
 
3- Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phương, 1952
 
4- Tìm Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam, nxb Văn Học Hà Nội, 1996.
 
5- Khảo Luận Về Thơ, Lam Giang, nxb Đồng Nai, 1994.
 
6- Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu, nxb Văn Học-Hà Nội, 1971.
 
7- Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Đến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb Văn Học-Hà Nội, 1974.
 
8- Thơ Văn Yêu Nước (1858-1900), Chu Thiên ,nxb Văn Học Hà Nội , 1970.
 
9- Chơi chữ , Lãng Nhân, nxb Nam Chi Tùng Thư, 1961.
 
10- Việt Nam Gãm Hoa, Hương Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn Canada,1997.
 
11- Người Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tường, nxb Thuận Hóa,1998.

Bồ Tùng Linh